Mất đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học đóng một vai trò quan trọng trong cách thức hoạt động của các hệ sinh thái và trong nhiều dịch vụ mà chúng cung cấp, bao gồm chu trình dinh dưỡng và nước, hình thành và giữ đất, khả năng chống lại các loài xâm lấn , thụ phấn cho thực vật, điều hòa khí hậu, cũng như kiểm soát dịch hại và ô nhiễm bởi các hệ sinh thái.
Đa dạng sinh học đóng một vai trò quan trọng trong dinh dưỡng của con người thông qua ảnh hưởng của nó đối với sản xuất lương thực thế giới, vì nó đảm bảo năng suất bền vững của đất và cung cấp nguồn gen cho tất cả các loại cây trồng, vật nuôi và các loài sinh vật biển được thu hoạch để làm thực phẩm.
Ngày càng có nhiều lo ngại về hậu quả sức khỏe của việc mất và thay đổi đa dạng sinh học. Mất đa dạng sinh học có thể tác động trực tiếp đáng kể đến sức khỏe con người nếu các dịch vụ hệ sinh thái không còn đủ để đáp ứng nhu cầu xã hội. Một cách gián tiếp, những thay đổi trong dịch vụ hệ sinh thái ảnh hưởng đến sinh kế, thu nhập, di cư địa phương và đôi khi thậm chí có thể gây ra xung đột chính trị.
Tăng cường và nâng cao sản xuất lương thực thông qua tưới tiêu, sử dụng phân bón, bảo vệ thực vật (thuốc trừ sâu) hoặc đưa vào các giống cây trồng và mô hình canh tác ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, và do đó tác động đến tình trạng dinh dưỡng toàn cầu và sức khỏe con người. Đơn giản hóa môi trường sống, mất loài và kế tục loài thường làm tăng tính dễ bị tổn thương của cộng đồng như là một chức năng của khả năng tiếp nhận môi trường đối với sức khỏe kém.
Nguyên nhân chính của sự suy giảm đa dạng sinh học có thể kể đến là do tác động của con người đến hệ sinh thái thế giới. Trên thực tế, con người đã làm thay đổi sâu sắc môi trường và thay đổi lãnh thổ, khai thác trực tiếp các loài. Ví dụ như đánh cá và săn bắn, thay đổi chu trình sinh địa hóa và di chuyển các loài từ khu vực này sang khu vực khác.
Các mối đe dọa đối với đa dạng sinh học có thể được tóm tắt trong các điểm chính sau:
- Thay đổi và mất nơi cư trú: sự biến đổi của các khu vực tự nhiên không chỉ quyết định sự mất mát của các loài thực vật mà còn làm suy giảm các loài động vật liên quan đến chúng
- Du nhập các loài ngoại lai và sinh vật biến đổi gen: các loài có nguồn gốc từ một khu vực cụ thể, được đưa vào môi trường tự nhiên mới có thể dẫn đến các dạng mất cân bằng khác nhau trong trạng thái cân bằng sinh thái.
- Ô nhiễm: hoạt động của con người ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên tạo ra những tác động tiêu cực, trực tiếp hoặc gián tiếp, làm thay đổi dòng năng lượng, thành phần hóa học và vật lý của môi trường và sự phong phú của các loài
- Biến đổi khí hậu: ví dụ, sự nóng lên của bề mặt Trái đất ảnh hưởng đến đa dạng sinh học vì nó gây nguy hiểm cho tất cả các loài thích nghi với cái lạnh do vĩ độ (loài vùng cực) hoặc độ cao (loài núi)
- Khai thác quá mức tài nguyên: khi các hoạt động liên quan đến đánh bắt và thu hoạch (săn bắn, đánh cá, trồng trọt) một nguồn tài nguyên thiên nhiên tái tạo ở một khu vực cụ thể diễn ra quá mức, bản thân nguồn tài nguyên đó có thể trở nên cạn kiệt, ví dụ như trường hợp cá mòi, cá trích, cá tuyết , cá ngừ và nhiều loài khác mà con người đánh bắt mà không để đủ thời gian cho các sinh vật sinh sản
Theo một đánh giá 20 năm, sự suy giảm đa dạng sinh học đang ngày càng đe dọa khả năng Trái đất cung cấp cho con người những thứ như thực phẩm, nước, đất đai màu mỡ và bảo vệ khỏi sâu bệnh.
Top 25 điểm nóng đa dạng sinh học: giàu đa dạng sinh học và đang bị đe dọa bởi tác động của con người Các điểm nóng: (1) Andes nhiệt đới; (2) Trung Mỹ; (3) Ca-ri-bê; (4) Vùng Rừng Đại Tây Dương; (5) Chocó-Darién-Tây Ecuador; (6) Cerrado Brazil; (7) Miền Trung Chile; (8) Tỉnh Floristic California; (9) Madagasca; (10) Dãy núi Vòng cung phía Đông và Rừng ven biển Tanzania và Kenya; (11) Rừng Tây Phi; (12) Vùng trồng hoa Cape; (13) Karoo mọng nước; (14) Địa Trung Hải; (15) Kavkaz; (16) Sundaland; (17) Wallacea; (18) Phi-líp-pin; (19) Indo-Miến Điện; (20) Vùng núi Nam Trung Bộ; (21) Western Ghats và Sri Lanka; (22) Tây Nam Australia; (23) Tân Ca-lê-đô-ni-a; (24) Niu Di-lân; và (25) Polynesia và Micronesia. Các khu vực hoang dã nhiệt đới chính: (A) Upper Amazonia và Guyana Shield; (B) Lưu vực sông Congo; và (C) Quần đảo New Guinea và Melanesian.
Hiện nay, con người đang nhận thức rõ hơn về tác động của việc mất đa dạng sinh học và có biện pháp đề phòng. Nhiều tổ chức đang nghiên cứu những cách mới để giảm tổn thất đa dạng sinh học một cách hiệu quả hơn. Để giảm tổn thất, có một số phương pháp khả thi: giảm phá rừng, giảm mở rộng nông nghiệp và sử dụng các hệ thống năng lượng tái tạo. Có một số cách quan trọng mà con người có thể làm chậm quá trình suy giảm đa dạng sinh học, mặc dù không có cách nào để phục hồi các loài đã tuyệt chủng.
Bảo vệ các khu vực – Tạo ra các khu vực được bảo vệ nơi hạn chế hoạt động của con người là cách tốt nhất để ngăn chặn nạn phá rừng và khai thác các sinh vật cũng như các nguồn tài nguyên mà chúng cần để tồn tại.
Ngăn chặn sự xâm nhập của các loài – Đây là trường hợp của các loài xâm lấn, có thể tàn phá khi được đưa vào các hệ sinh thái không được chuẩn bị để đối phó với chúng.
Thông báo / Giáo dục – Giáo dục là một công cụ mạnh mẽ và càng nhiều người biết về sự suy giảm đa dạng sinh học, họ càng sẵn sàng giúp làm chậm quá trình đó.
Biến đổi khí hậu chậm lại – Biến đổi khí hậu là nguyên nhân được ghi nhận của một số vụ tuyệt chủng mà chúng ta biết, và có khả năng đã khiến hàng trăm loài bị tuyệt chủng mà chúng ta có thể không bao giờ biết. Bất kỳ nỗ lực nào với tư cách cá nhân, tổ chức hoặc chính phủ nhằm làm chậm sự nóng lên toàn cầu do con người gây ra hiện nay là một bước tiến tới làm chậm quá trình mất đa dạng sinh học.
Thúc đẩy tính bền vững – Canh tác bền vững tốt hơn nhiều cho môi trường so với chăn thả gia súc và trồng trọt dựa vào việc dọn sạch các khu rừng hoặc cánh đồng.